Hoàng Phong Tuấn
Con người luôn có ý thức lắng nghe tiếng gọi nội tâm để trong khi hành xử ở thế giới này, biết từ khước nhiều lợi ích trần tục để xứng đáng là công dân của thế giới khác tốt đẹp hơn mà họ đã ôm ấp trong ý niệm. Kant. Phê phán lí tính thuần túy.
Trên con đường nhận thức và tìm kiếm ý nghĩa và mục đích của đời sống, con người đã đặt mình trong những thế giới khác nhau để soi chiếu vào thế giới thực tại và suy tư về thân phận và ý nghĩa của mình. Đó có lẽ là điều mà Imanuel Kant, triết gia tạo nên bước ngoặt cho lịch sử triết học, có thể đã nghĩ đến. Vì thế, mặc dù trong cuộc phê phán triết học quyết liệt của mình, ông đã cho rằng ta không thể bàn luận về linh hồn hay thế giới bên kia. Nhưng, như một người đồng cảm được những khát khao suy tư của con người, ông đồng thời cũng cho rằng, trong các văn bản dân gian, con người còn hướng đến mục đích tối hậu của đời sống, qua đó sử dụng quy luật đạo đức để nâng mình khỏi các giới hạn của trần thế, và từ đó, mong ước những thế giới khác tốt đẹp hơn ngoài thế giới thực tại đang có[1].
Từ góc nhìn được Kant gợi ra, bài viết này đi tìm cách thức con người suy tư về chính mình khi đặt mình trong các thế giới khác nhau qua sự trung giới của cái chết. Được thiết kế như hành trình tìm lại những suy tư, bài viết tạo nên sự kết nối và đối ứng ba văn bản – hai của nền văn hóa Hi Lạp, Antigone và Crito, một của văn hóa Việt Nam, Người con gái Nam Xương[2], để qua đó bóc tách ra những chất vấn về ý nghĩa của đời sống và cái chết. Cả ba văn bản đều xây dựng hình ảnh con người giữa hai thế giới và mở ra những suy tư về cái chết và sự lựa chọn cái chết. Trước hết, cả hai văn bản Antigone và Người con gái Nam Xương đều đặt người phụ nữ trước những giới hạn mà nam giới định ra cho họ. Nhưng bằng những cách khác nhau, mỗi văn bản để cho người phụ nữ đối diện với ranh giới ấy, vượt qua chúng và tìm cho mình những khả thể khác của đời sống. Crito lại mở ra cho chuyến hành trình này một chiều kích khác, trong sự đối ứng với Antigone và tương liên với các văn bản gần gũi về cuộc đời Socrates, nó nêu lên vấn đề về việc con người có nên chống lại quyền diễn giải cái chết của định chế xã hội hay không. Nhưng cả ba văn bản, khi đặt con người giữa hai thế giới thông qua sự trung giới của cái chết, đều nêu lên vấn đề quyền tự quyết và diễn giải về cái chết từ góc độ cá nhân.
***
Ta khởi đầu hành trình với việc xem xét cách thức mà vở Antigone lấy cái chết để khai triển mô hình hai thế giới đối ứng. Nằm trong nguồn mạch thần thoại Hi Lạp và chịu ảnh hưởng quan niệm về con người và thần linh trong mối quan hệ giữa các thế giới khác nhau: các vị thần trên đỉnh Olympia, con người ở trần thế khi còn sống và xuống âm phủ sau khi chết, vở kịch chủ yếu kể về các mối quan hệ của con người trên trần thế, nhưng trong một sự đối ứng thường trực với thế giới âm phủ. Trong vở kịch, cái chết không đơn thuần là kết thúc sự sống của cơ thể đang sống một người mà là bước chuyển giao của hành trình từ thế giới đời thường do con người cai quản sang thế giới thiêng liêng do thần thánh cai quản. Nơi bước chuyển giao này, thủ tục chôn cất là tấm giấy thông hành: Polyneices đã chết, nhưng cần được thực hiện thủ tục chôn cất để bước sang thế giới bên kia. Chính ở chỗ này, văn bản đã xây dựng hình ảnh thể xác đã chết của Polyneices như là một tồn tại kép, nó vừa là hiện thân cho con người đã sống trong thế giới của thành bang, vừa là phần tồn tại khác của đời sống tiếp tục sau khi chết ở thế giới của thần Hades. Vị thế tồn tại kép này là điểm nút tạo ra xung đột trong các diễn giải của nhân vật về Polyneices: thân xác trong hình ảnh con người đang ở giai đoạn chuyển giao giữa hai thế giới này đích thực thuộc về thế giới nào? Nó có phải chịu trách nhiệm cho hành vi trong quãng đời trước đó của Polyneices? Nói cách khác, nó là ai, tội phạm phải bị trừng phạt hay kẻ có quyền có cuộc đời mới với những thủ tục chôn cất như là giấy thông hành vào thế giới của Hades? Mô hình hai thế giới rõ ràng đã tạo một tình thế cho diễn giải về cái chết từ các viễn tượng khác nhau. Và ở điểm nút này, hình ảnh của Antigone như người phụ nữ có cách diễn giải khác về cái chết và quyền được có một đời sống sau khi chết qua các thủ tục chôn cất. Nhưng vở kịch cũng mở ra, như ta sẽ thấy, những chiều hướng khác về ý nghĩa của cái chết, cũng như chất vấn quyền diễn giải cái chết của người khác.
Bằng cách thức đặt con người kẹt lại giữa hai thế giới, văn bản làm hiện ra sự xung đột giữa viễn tượng chính trị với các viễn tượng khác nhau về cái chết, thông qua đó, là sự xung đột giữa quyền diễn giải về cái chết và thế giới sau khi chết. Creon nhìn cái chết của Polyneices trong viễn tượng chính trị, ở góc nhìn này, thân xác và sự tồn tại sau cái chết là tiếp nối cuộc đời đã sống, do đó, nó phải chịu trách nhiệm cho những gì con người sống đã làm, phải bị trừng phạt như là một tội phạm, để hợp thức hóa quyền lực và định chế xã hội mà ông là người đại diện. Đối với ông, nếu có một đời sống sau cái chết thuộc về thần linh, thì đời sống ấy phải chịu sự kiểm soát từ quyền lực của xã hội hiện thực. Nói cách khác, Creon cấp nghĩa cho cái chết trong phạm vi quyền lực của mình: “Nhưng bất cứ ai bộc lộ nhiệt tình cùng tổ quốc, ta sẽ kính tôn trung thành sau trước, lúc bình sinh cũng như lúc qua đời”. Việc Creon đồng nhất hóa bản thân vào hình ảnh tổ quốc và biểu đạt thái độ đối với ứng xử của bất kì ai đối với tổ quốc, cả lúc họ qua đời, xét cho cùng, là sự mở rộng có tính bá quyền viễn tượng cá nhân về cái chết. Sự mở rộng có tính bá quyền này xung đột với quyền lực khác về cái chết, đó là quyền lực của thần Hades trong viễn tượng thần linh.
Ở viễn tượng thần linh, cái chết như là một khởi đầu cho giai đoạn mới trong thế giới của Hades, theo đó thân thể của người chết phải được chuẩn bị các thủ tục mai táng. Viễn tượng này được nêu lên bởi Antigone, Tiesias, triển khai theo sự tiến triển của vở kịch. Trước tiên Antigone viện dẫn nó như là sức mạnh quyền lực cho hành động của cô, và cảnh báo Creon về cách đối xử của ông với thân xác của người đã chết: “Tôi không nghĩ những điều ngài quyết đoán, lại có đủ hiệu năng và sức mạnh, đặt ý muốn kẻ trần gian lên ý muốn các thần, trên những luật điều đã viết thành văn, mà không thể có ai hòng xóa nổi”. Xung đột kịch bắt đầu xuất hiện ở nơi cách diễn giải khác nhau về cách đối xử với thân thể đã chết cũng như thế giới mà thân thể đó thuộc về. Tiesias xuất hiện như để mở rộng quyền lực của thần linh đối với cái chết. Ông giải thích các biểu hiện như tiếng kêu của chim chóc, mẩu xác thịt vương vãi là dấu hiệu về hậu quả sắp đến khi các vị thần nổi giận. Theo lời ông, hệ quả của việc không tuân theo thủ tục là thành quốc sẽ bị trừng phạt, và như thế, người dân sẽ không còn tồn tại cho sự duy trì trật tự chính trị. Sự phác họa về hệ quả sẽ đến của nhà tiên tri đã tác động tới Creon, làm cho ông hoảng sợ, thay đổi quyết định của mình, và như thế quyền lực của Hades được thiết lập trở lại trong thế giới những người đang sống.
Ở một chiều kích khác, viễn tượng chính trị xung đột với viễn tượng nhân tính (human perspective), mà đại diện là Antigone và Heamon. Với Antigone, thân thể đã chết cần được chôn cất vì đó là thân thể người anh trai duy nhất cần được chuẩn bị để siêu thoát. Cô ý thức được sự lạc loài của cái chết không được chôn cất để sang thế giới bên kia, một cái chết bị kẹt lại ở bước chuyển giao. Trong sự hình dung về mình khi bị phán quyết phải giam nơi hầm mộ cho đến chết, cô đã ví mình như con gái của Tantale, và tự hình dung về cái chết bị kẹt của chính mình “không sống giữa trần gian, không sống nơi địa ngục”. Chính sự tự hình dung này cho thấy cô đồng cảm với anh trai Polyneices. Xét cho cùng, đây là sự diễn giải về cái chết ở viễn tượng nhân tính, như là sự đồng cảm và thương xót với phần đời của người đã chết nơi thế giới bên kia, từ đó thôi thúc việc chôn cất thân thể đã chết. Và như thế nó tất yếu xung đột với viễn tượng chính trị, bởi lẽ viễn tượng này nhìn cái chết như một sự kiện của đời người trong trật tự xã hội, còn viễn tượng nhân tính nhìn cái chết như một sự chuyển giao cần được hoàn tất bởi người thân cho phần đời khác ở thế giới bên kia.
Nhưng nổi bật nhất trong vở kịch là cái chết còn được nhìn trong viễn tượng của cái cá nhân thông qua sự lựa chọn cái chết của Antigone và Heamon; và qua đó, nó tạo nên xung đột mạnh mẽ với viễn tượng chính trị về cái chết. Trong góc nhìn này, cái chết biểu đạt cho sự lựa chọn và ý chí cá nhân: lựa chọn cái chết là một hành vi phản kháng hoặc đồng tình và ý nghĩa của nó được cấp bởi chính chủ thể lựa chọn cái chết. Ở đây, Heamon hiện lên như một hình ảnh tiêu biểu cho việc quyết định lựa chọn cái chết để thúc đẩy hậu quả phán quyết của Creon vượt quá mức mà ông có thể chịu đựng được. Quyết định này đã được dự tính từ sớm khi anh nói với cha rằng cái chết của Antigon sẽ kéo theo nhiều cái chết khác. Anh gán nghĩa cho những cái chết này, trong đó có thể là anh, như là sự “đấu tranh với tình cảm gian tà”. Đối với Creon, đây rõ ràng là hành vi chống đối, vì không ai ngoài ông có quyền cấp nghĩa cho cái chết. Hơn nữa, hành vi lựa chọn cái chết và gán cho nó ý nghĩa của giá trị đạo đức, giá trị của cái thiện, là đối lập hoàn toàn với sự cấp nghĩa mà Creon nêu ra lúc đầu (là chỉ có cái chết cho tổ quốc mới được ông tôn trọng). Ở đây, văn bản làm hiện ra xung đột giữa sự chiếm hữu cái chết trong viễn tượng chính trị và quyền sở hữu cái chết của chủ thể tự quyết. Và như chúng ta sẽ thấy trong phần phân tích đối ứng về Người con gái Nam Xương, cả hai văn bản ngụ ý rằng lựa chọn cái chết là cách thức con người mở rộng biên giới đời sống của mình, để hướng đến “thế giới khác tốt đẹp hơn mà mình ôm ấp trong ý niệm”, như Kant nói. Trong vở Antigone, thế giới khác ấy được gợi ra qua cách Antigone và Heamon đấu tranh cho sự diễn giải cái chết của mình và không chấp nhận sự áp đặt cái chết của Creon, và cuối cùng, chọn lấy cái chết như sự rời bỏ thế giới đời sống đã không còn như họ mong muốn nữa.
Những xung đột trên là cách thức mà văn bản đặt ra cho chúng ta câu hỏi về ý nghĩa của cái chết. Cái chết phải chăng là điều gì đó mà ý nghĩa của nó gắn liền với các định chế xã hội và tôn giáo, hoàn toàn không còn thuộc về người đã chết? Hay cái chết không chỉ là giới hạn của đời sống con người, mà nó còn là hành vi lựa chọn, tự quyết? Văn bản cũng đặt ra vấn đề về việc đấu tranh cho ý nghĩa và diễn giải về cái chết, qua hình ảnh Antigone và Heamon. Và như thế, nó đã gợi ra những suy tư và khát vọng của con người trên đường tìm kiếm những giá trị phổ quát của đạo đức, như ta sẽ bàn luận trong phần sau khi đặt đối ứng với sự lựa chọn cái chết của Socrates trong Crito.
***
Ta hãy thử rời xa phương Tây cổ đại với thành bang và các vị thần để đến với phương Đông thời trung đại, với truyện kể về người đàn bà lựa chọn cái chết như cách sống một đời sống khác để thoát khỏi sự mất nghĩa.
Ở truyền trống Việt Nam, hình ảnh xã hội được biểu hiện qua các văn bản còn tìm thấy được là xã hội phụ quyền, nơi người đàn ông có vai trò chính, và do đó, những nỗi oan khuất đè nặng lên cuộc đời người đàn bà. Thị Kính đã phải đi tu khi bị biểu lầm là giết chồng, và Vũ nương đã phải tìm đến cái chết vì bị chồng nghi là phụ bạc. Đặt trong dòng mạch ấy, Người con gái Nam Xương nhấn mạnh vào sự lựa chọn đời sống của người phụ nữ trong một tình thế không được lựa chọn.
Truyện Người con gái Nam Xương có thể được đọc như cách thức mà mô hình hai thế giới tạo nên những khả thể khác nhau cho đời sống con người. Một cách đọc chú trọng đến không gian văn bản cho phép ta hình dung phần trên của truyện kể như là đời sống trần thế, và phần dưới là đời sống thủy cung. Hai thế giới giao nhau khi con người có được sự tương cảm, đó là lúc chồng của Vũ nương lập đàn giải oan cho vợ mình; và con người có thể di chuyển giữa hai thế giới như Phan Lang sau khi xuống thủy cung lại có thể trở về lại nhà. Theo đó, việc lựa chọn cái chết của Vũ Nương là điều kiện để cô có một bước chuyển tiếp sang thế giới khác, nhưng cô cũng có thể trở về thế giới trần thế khi được người chồng thấu hiểu.
Ở đây mô hình hai thế giới đặt nhân vật trước lựa chọn: trở về thế giới trần thế với người chồng và câu chuyện ghen tuông quá khứ, dù nó đã được viết lại; hay sống tiếp ở thế giới thủy cung nơi cô có thể thoát ra khỏi câu chuyện quá khứ của mình? Truyện kể vì thế đặt ra vấn đề về giới hạn của đời sống: trong chừng mực nào thì con người có thể sống tiếp một cuộc sống như đã sống? Hay nói khác hơn, trong chừng mực nào thì họ nên chọn cuộc sống khác?
Ta chú ý đến hai cách giải thích khác nhau của Vũ nương về lí do cô lựa chọn không trở về trần thế với người chồng của mình. Lời giải thích thứ nhất cô nói với Phan Lang “Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về gặp mặt chồng”. Lời giải thích thứ hai cô nói cho chồng: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về nhân gian được nữa”. Có thể diễn giải khác biệt này là do cô không muốn nói với người chồng lí do thật rằng mình không thể nào gặp mặt chồng, nhưng điều này lại mâu thuẫn vì chính cô đã gặp chồng và nói lời từ chối về nhân gian. Nhưng việc cô ở lại vì cảm ơn đức của Linh Phi cũng không phải lí do thật sự, vì cô đã không nói như thế khi trả lời Phan Lang. Chính ở điểm cô đã không cho ai biết lí do thật sự này, ngay cả chồng của cô, đã cho thấy cô lựa chọn cho mình không những sống trong một thế giới khác mà còn là sống một đời sống khác, mà trong đời sống ấy cô không để cho những người có liên quan đến cuộc sống quá khứ thật sự biết về mình. Và như thế, mô hình hai thế giới đã tạo nên khả thể cho lựa chọn của cô: việc lựa chọn cái chết hóa ra lại là một dịp để cô di chuyển sang thế giới khác, đồng thời tạo điều kiện để cô sống cuộc đời khác.
Nhưng rốt cục đời sống thật sự mà Vũ nương lựa chọn là gì? Ta có thể lần theo dấu vết của điều này bằng cách chú ý đến sự giằng co của Vũ nương: cô chủ động để Phan Lang nhận ra mình, rồi lại từ chối lời gợi ý trở về, tiếp đến lại chủ động trở về gặp mặt chồng và cuối cùng quyết định hoàn toàn rời xa thế giới nhân gian. Ở góc độ không gian văn bản, sự giằng co của nhân vật gợi ra cách thức mà nhân vật di chuyển giữa hai thế giới theo tình cảm gắn bó của mình. Cô trầm mình vì bị người chồng ruồng rẫy, cô nói rằng mình không thể trở về vì đã bị ruồng bỏ, nhưng ân tình gắn bó làm cô lại quyết định trở về gặp mặt, rồi cô lại nhận ra rằng mình không thể sống lại cuộc sống như trước ở nhân gian. Và như thế, thế giới thủy cung, nơi Vũ nương cuối cùng đã chọn ở lại, hóa ra chính là nơi xa lạ mà ở đó cô đã rời xa mọi mối liên hệ gắn bó tình cảm của cuộc đời cũ. Văn bản đã không cho ta biết đời sống mới của cô thực sự thế nào, theo nghĩa một đời sống với các mối liên hệ tình cảm giữa con người; cũng như cô đã không cho những người ở đời sống cũ biết lí do cô không trở về dương gian, qua những lời giải thích đầy mâu thuẫn. Nhân vật bước ra ngoài thế giới mà ta có thể hiểu và diễn giải về cô. Và như thế, văn bản ngụ ý về sự mất nghĩa, sự lưu lạc khỏi đời sống quá khứ, việc trốn chạy khỏi sự mất nghĩa của đời sống quá khứ để rơi vào sự mất nghĩa khác.
Chính ở đây ta trở về với vở kịch Antigone, qua hành động lựa chọn cái chết của Antigone và Heamon, để đối ứng cách thức mà các văn bản đã gợi ra ý nghĩa về việc lựa chọn cái chết. Cả hai văn bản, Antigone và Người con gái Nam Xương đều đặt con người trong tình thế mà đời sống hiện tại đã không còn cho họ quyền lựa chọn. Antigone bị giam cầm trong hang núi trong nỗi đau về người anh chưa được chôn cất, Heamon đã không còn được sống với vị hôn thê của mình, và cả hai đều phẫn uất trước sự chuyên quyền của Creon. Vũ nương cũng trong tình thế không được lựa chọn. Cô không thể sống nổi với người chồng ghen tuông ám ảnh và vũ phu. Trong khi đó, hai văn bản lại đem đến những hướng đi khác nhau cho phần kết, Antigone kết thúc với cái chết của Antigone và Heamon còn Creon tự giam cầm và cảm thấy mình có lỗi; Người con gái Nam Xương kết thúc với đời sống mới bị mất nghĩa của Vũ nương, và nhân vật người chồng vẫn sống trong thế giới của anh ta.
***
Nhưng bây giờ chúng ta sẽ đi tiếp một chuyến hành trình vòng lại với các văn bản Hi Lạp lần nữa, nhưng là với các văn bản triết học của Plato về những ngày cuối trong cuộc đời Socrates, để tìm kiếm thông điệp về sự lựa chọn cái chết, mà tiêu biểu là trong Crito.
Crito, cũng như Apologia (Tự biện) và Phaedo, là các văn bản của Plato về những ngày cuối trong cuộc đời Socrates. Trong các văn bản, nhân vật Socrates, trong hoàn cảnh bị xử chết vì tội lỗi mà những người khác gán cho ông, đã không chịu bỏ trốn theo lời khuyên mà bình thản lựa chọn cái chết; và trong hoàn cảnh ở nhà lao, trước khi uống thuốc độc, ông bàn luận về cái chết và đời sống sau cái chết. Đặt trong mối quan hệ tương ứng với Antigone, ta thấy sự diễn giải về cái chết của Socrates thoạt tiên có vẻ giống với diễn giải của Creon. Lập luận của Socrates về việc ông chấp nhận cái chết dù không chấp nhận tội mà người khác gán cho ông dựa trên trách nhiệm của một công dân đối với thành bang quê hương ông. Là một công dân thành bang, ông không thể bất tuân luật pháp và trốn đi nơi khác, phản bội mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên, và vì thế, ông thanh thản chấp nhận cái chết mà hội đồng phán quyết, vì nó dựa trên những điều luật mà chính ông đã dự phần. Chúng ta hãy đọc lời của Socrates khi ông hình dung mình trong vai trò luật pháp để trả lời đề nghị của bạn vong niên rằng ông nên trốn đi:
[Lời của Socrates trong vị trí luật pháp]: “Nếu tiên sinh lẩn trốn ra đi theo cách nhục nhã như thế, lấy bất công, bất chính đáp lời đáp lời bất chính, bất công, đem sai trái trả thù trái sai, sau khi vi phạm thỏa ước và cam kết với chúng tôi, sau khi gây tổn hại, làm sai trái cho người đáng lẽ chẳng nên làm sai trái, gây tổn hại tí nào, nghĩa là bản thân tiên sinh, bạn bè tiên sinh, xứ xở tiên sinh và chúng tôi, nếu tiên sinh làm thế, chúng tôi sẽ phẫn nộ với tiên sinh trong khi tiên sinh còn sống ở đời này, anh em chúng tôi, luật pháp âm phủ, sẽ không nhân từ, không niềm nở tiếp đón tiên sinh dưới đó, vì biết nếu có thể tiên sinh vẫn tìm cách hủy hoại chúng tôi.”
Ta có thể thấy lời của Socrates vang vọng trong nhận định của Kant về việc con người sử dụng các quy luật đạo đức để suy tư về mình và hướng tới thế giới tốt đẹp hơn. Quy luật đạo đức, theo Kant, là điều đúng đắn được áp dụng phổ quát trên cơ sở hình dung rằng nếu được áp dụng cho tất cả có phá vỡ đời sống con người hay không. Vị trí luật pháp mà Socrates tự đặt vào để cất tiếng chính là hình ảnh của quy luật đạo đức như thế, nó vượt xa khỏi thế giới thực tại, nhưng thực chất là hướng đến một thế giới khác tốt đẹp hơn.
Nhưng chính điều này đã chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa lời của Socrates và lời của Creon về ý nghĩa cái chết. Với Socrates, cái chết mà ông lựa chọn xuất phát từ phán quyết của hội đồng mà ông chấp nhận, vì thế ông bình tĩnh đón nhận nó. Với Creon, cái chết của người khác do ông đặt định xuất phát từ vị trí quyền uy tuyệt đối, bất chấp sự phản đối của Antigone và Heamon. Và như thế, hai văn bản, Antigone và Crito, đặt ra tính nước đôi của ý nghĩa cái chết: cái chết vừa thuộc về kẻ khác, vừa thuộc về chủ thể; cái chết không chỉ là giới hạn mà còn là khả thể cho sự lựa chọn một cách sống.
Xuyên qua các văn bản mà chuyến hành trình đã lướt qua, ta không thấy thế giới nào tốt đẹp thực sự hiện ra, mà chỉ có những khắc khoải tìm kiếm chúng in dấu trong suy tư của con người về cái chết. Rốt cục thì luật pháp mà Socrates tuân thủ đã là đủ cho một thế giới đời sống đã gán tội vô lí cho triết gia? Creon hối hận đã đủ để đem đến điều tốt thành bang mà ông cai quản? Thế giới thủy cung xa lạ có là nơi chốn hạnh phúc cho Vũ nương? Do đó, có lẽ suy nghĩ của Kant trong câu đề từ cần phải được diễn giải lại hoặc bổ sung thêm: mong ước mà con người đang ôm ấp về điều tốt đẹp hơn chỉ là ý niệm chứ không phải là thế giới nào có thể có, nhưng điều đó có lẽ cũng không ngăn cản họ luôn hình dung và tìm kiếm khả thể cho đời sống trong thế giới khác ngoài đời sống trong thế giới thực tại của mình.
Sài Gòn những ngày tăm tối mùa dịch, 2021.
[1] Phần trình bày này của Kant thể hiện trong Phê phán lí tính thuần túy. Quyển II, Chương 1: Các võng luận, Bùi Văn Nam Sơn dịch, NXB Văn học, 2014.
[2] – Ba văn bản này thuộc các thể loại khác nhau (theo cách phân loại phổ biến: kịch, văn bản triết học, tự sự trung đại), nhưng điều đó không ngăn cản việc phân tích chúng như các văn bản văn hóa thể hiện những suy tư về các chủ đề liên quan trong bài viết. Mặt khác, bài viết cũng không sử dụng phương pháp hay khái niệm lí thuyết chuyên biệt cho bất kì thể loại nào. Góc nhìn của Kant được nêu ra như một gợi ý cho hành trình tìm kiếm này mà thôi.
– Văn bản Antigone sử dụng theo bản dịch Hoàng Hữu Đản: Bi kịch Hi Lạp, NXB GD, 2007. Crito sử dụng theo bản dịch của Đỗ Khánh Hoan: Ngày cuối trong đời Socrates, NXB Thế giới, 2013. Người con gái Nam Xương sử dụng theo bản dịch: Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn nghệ, 1988.